Các địa điểm thăm quan
Đông Hà Môn - Ô Quan Chưởng
Vào thế kỷ XV, khu vực này thuộc thôn Thanh Hà, phường Đông Hà, một phường ở phía đông kinh thành Thăng Long. Địa danh này được nhắc tới trong sách Cương mục với sự kiện hàng năm vào thời Lê – Mạc (thế kỷ XVI) và Lê – Trịnh (thế kỷ XVII – XVIII), triều đình đều cử hành lễ “Tiến Xuân ngưu” vào dịp tiết lập xuân tại phường Đông Hà, do Bộ Công đứng ra tổ chức, có đầy đủ văn võ bá quan. Sách Lịch triều Hiến chương loại chí cũng ghi chép rõ về tục lệ này.
Đông Hà là một phường giáp với sông Hồng, được che chắn bằng con đê ngăn nước lũ. Theo Doãn Kế Thiện viết trong cuốn Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội thì Đông Hà Môn được xây dựng vào thời kỳ đắp lại con đê cũ thành tòa thành đất bao quanh kinh thành Thăng Long; và là một trong 5 cửa ô xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), gồm: Cửa ô Phúc Lâm, cửa ô Nhân Hòa, cửa ô Cầu Dền, cửa ô Cầu Dừa và cửa ô Đông Hà. Đến năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785), ô Quan Chưởng được tu bổ lớn. Công trình kiến trúc ngày nay là kết quả của lần xây dựng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Tới năm 1817, tiếp tục mở rộng đường xá và sửa chữa ô Đông Hà, nên đình Thanh Hà ở cạnh cửa Đông Hà phải di dời vào phía trong, nơi bây giờ là số 10 Ngõ Gạch. Thời gian, mưa nắng và biến động binh hỏa, các cửa ô đều bị tiêu tàn, chỉ còn lại duy nhất Đông Hà Môn. Hiện nay trong đình Thanh Hà còn một tấm bia đá do Bùi Tú Lĩnh soạn năm 1855 nói rõ về sự kiện này.
Đông Hà Môn là kiến trúc dựng cổng theo kiểu vọng lâu, gồm hai tầng. Tầng dưới có 3 cửa vòm, cửa chính ở giữa cao tới 3m, rộng gần 3m, hai cửa phụ hai bên, mỗi cửa rộng 1,65m, cao 2,5m. Tầng trên có vọng lâu 4 mái, thu nhỏ vào vị trí giữa cửa, nên có đường đi chạy xung quanh, mé ngoài có lan can trang trí các hình lục lăng, tứ giác hay hoa thị.
Lối dẫn lên vọng lâu xây bậc thang ở hai bên phía ngoài cổng phụ. Toàn bộ cửa Đông Hà có chiều rộng 20m, chiều dài 7m, xây bằng đá và gạch vồ loại lớn tương tự như gạch xây tường ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Mặt trước, phía trên cửa chính, chỗ dưới vọng lâu, trong một khung hình chữ nhật có đắp nổi ba chữ Hán bằng những mảnh sứ xanh “Đông Hà Môn”. Mặt sau, hướng ra phố Hàng Chiếu, có tấm biển đá cỡ 0,81m, được gắn lên tường. Đó là tấm bia “Lệnh cấm trừ tệ”, lập ngày 12/4/1881, ghi lệnh sức của Tổng đốc Hoàng Diệu và Tuần phủ Hoàng Văn Xứng cấm lý dịch các thôn, phường gây khó dễ, sách nhiễu dân chúng khi họ có việc nhà hoặc đi buôn bán, làm ăn trên sông, ở chợ... Nếu sự việc được phát giác sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Đông Hà Môn là một cửa quan trọng của vòng ngoài kinh thành Thăng Long thời kỳ 36 phố phường, lại là cửa mở ra bến sông Hồng, chắc chắn có một vị trí quan trọng trong giao lưu buôn bán. Có lẽ tấm bia “Lệnh cấm trừ tệ” là hiện vật duy nhất thuộc nội dung này còn lưu giữ được, nó có giá trị đặc biệt cho việc nghiên cứu lịch sử Hà Nội.
Có thể nói, Đông Hà Môn là tên gọi chính xác nhất của di tích cửa ô, nhưng nhân dân vẫn thường gọi là Ô Quan Chưởng, do có những chuyện truyền tụng từ lâu. Chuyện thứ nhất vào cuối đời Lê, có ông quan Chưởng ấn về hưu, lập dinh cơ ở cạnh cửa ô này, vậy nên người ta tiện miệng gọi là Ô Quan Chưởng. Chuyện thứ hai, vào thời Nguyễn có một viên quan Chưởng cơ chỉ huy kiểm soát ở cửa ô, mọi thuyền bè ghé đến đều phải qua trình báo quan Chưởng ấy, và người ta quen miệng gọi là Ô Quan Chưởng. Chuyện thứ ba, nhiều người biết đến nhất là vào năm 1873, giặc Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, có viên quan Chưởng vệ cùng toàn thể binh lính dưới quyền chỉ huy của ông đã chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng tại cửa ô này. Nhân dân gọi tên Ô Quan Chưởng để tưởng nhớ người chiến đấu, hy sinh cho Hà Nội... Cái tên Ô Quan Chưởng, dù bởi lý do gì, cũng đã đi vào tiềm thức nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước, và sự ghi nhận chính thức của lịch sử là đoạn phố nối từ cổng Ô tới phố Trần Nhật Duật đã mang tên là phố Ô Quan Chưởng.
Trải qua bao năm tháng với những biến động lịch sử của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, nói mỗi thước đất Hà Nội đều in lớp lớp dấu ấn ngàn xưa, cũng không ngoa. Chỉ riêng các cửa ô xưa của Thăng Long có lúc đã có tới 21 cửa từ thành Đại La ra các vùng dân cư phụ cận và dẫn tới các vùng đất nước xa xôi. Đông Hà Môn – Ô Quan Chưởng, di tích khá nguyên vẹn, như một chứng tích sống động của Thăng Long 36 phố phường. Di tích lịch sử này, hàng ngày hòa với cuộc sống thực tại đông vui tấp nập, và còn tiếp tục đồng hành cùng sự phát triển của Thủ đô.